LỊCH SỬ PHÁP-TẠNG PHẬT-GIÁO VIỆT-NAM

PHÁP-TẠNG PHẬT-GIÁO VIỆT-NAM
NAM MÔ TỊNH VƯƠNG PHẬT

       Pháp-Tạng Phật-Giáo Việt-Nam do Thiền Sư Từ Thế Thọ (1918-1993), sinh ra tại Bình Định, cư ngụ tại xã Nha Trang Tây, thị xã Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà (nay là phường Tân Lập, thành phố Nha Trang) sáng lập ra lấy Pháp Hiệu là : Tịnh Vương Nhất Tôn.

       Thiền Sư Từ Thế Thọ sinh ra trong một gia đình có đông anh em, cha là người Hoa, mẹ là người Việt Nam. Trong số các anh em của mình ông là người theo nghiệp cha hành nghề thầy thuốc. Do thường ngày tiếp xúc với những bệnh nhân, nhìn thấy sự đau khổ trên thân thể người bệnh nên ông hướng tâm tu Phật nhằm đạt đến Chân Lý an lành-giải thoát.

       Trong số các cư sĩ tại gia tìm học Tam tạng kinh điển của Đức Phật để lại với nhiều Pháp môn tu hành khác nhau nhưng ông Từ Thế Thọ đã chọn tu hành theo pháp môn Vãng sanh-Niệm tưởng Tự Tánh Di Đà muôn phương Tịnh độ của A-Di-Đà-Phật, pháp môn thích hợp với người cư sĩ tại gia tu cầu giải thoát.

       Đến năm 1956, ông bắt đầu chú trọng về môn Thiền Tông Như Lai Thiền. Ngoài việc bốc thuốc chữa bệnh vị lương y này còn giảng giải nghĩa lý về kinh điển, khuyên răn người dân tu tâm, dưỡng tánh, làm lành lánh dữ, nên người dân địa phương không chỉ kính ngưỡng ông là một vị lương y mà còn là một vị Thiền Sư có tâm đạo. Dần dần tiếng tăm lan ra các tỉnh lân cận, dân chúng đến xin chữa bệnh ngày một đông, tụ tập về Nha Trang chữa bệnh và phát bồ đề tâm nguyện tu học theo pháp môn Thiền, cầu Tri-Kiến Giải-Thoát sanh tử luân hồi. Từ đó, người dân không chỉ trong tỉnh Khánh Hòa mà từ các tỉnh Thừa Thiên Huế, Quảng Nam – Đà Nẵng, Bình Định, Đăk Lăk, Sài Gòn, Tiền Giang, Long An, đến chữa bệnh và học đạo.

       Sau ba năm công phu hành thiền đến năm 1959 ông bắt đầu viết tập Duy Nhất Pháp Môn Như Lai Thiền và đến năm 1961 hoàn thành. Từ đây ông vừa là người thầy thuốc chữa bệnh, vừa là Thiền Sư chỉ dạy môn pháp tu hành để mọi người chữa trị tâm bệnh nên ngày càng nhiều người tin theo pháp môn tu hành của ông.

       Ông được tín chúng suy tôn làm Tăng Chủ, đến năm 1965, số lượng “tín chúng” khắp nơi tìm về xin tu theo pháp môn ngày một đông. Trong số đó có những người có trình độ học vấn cao nên đã tiến hành ghi chép lại những lời giảng dạy của ông rồi sắp xếp thành các tập: Giáo ngôn,Giáo Lý Trên con đường giải thoát, Giáo pháp…

       Năm 1969, “tín chúng” ở các tỉnh như: Thừa Thiên -Huế, Quảng Nam- Đà Nẵng, Đăk Lăk, Bình Định, Nha Trang và thành phố Sài Gòn đã hình thành tại các nhóm tại địa phương mình và đồng tâm nộp đơn xin thành lập Hội Pháp tạng Phật giáo Việt Nam. Thể theo nguyện vọng của “tín chúng” lương y, Thiền Sư Từ Thế Thọ lập hồ sơ xin phép chính quyền thành lập tôn giáo để được sinh hoạt hợp pháp và được chính quyền Việt Nam Cộng hòa cho phép thành lập, hoạt động theo quy chế hiệp hội (Nghị định số 607/BNV/KS/14B).

       Ngày 2 tháng 8 năm 1971 cho phép thành lập Hội Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam), có số lượng người tin theo tại thời điểm công nhận tổ chức và hoạt động khảng 3.000 người.

       Pháp-Tạng Phật-Giáo Việt-Nam cũng như các tổ chức tôn giáo khác, đều trải qua các giai đoạn tồn tại và phát triển. Trong những năm qua, Pháp-Tạng Phật-giáo Việt-Nam trải qua các giai đoạn sau:

Giai đoạn từ 1971-1976:

       Đây là giai đoạn hình thành, ổn định và phát triển về mặt tổ chức. Thời điểm này, Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam có số lượng người tin theo khoảng 3.000 người đến từ 06 tỉnh, thành phố cả nước, gồm Khánh Hòa, thành phố Hồ Chí Minh, Thừa Thiên – Huế, Quảng Nam – Đà Nẵng, Bình Định, Đắc Lắc, số lượng Pháp bảo là 23 cơ sở.

       Giai đoạn từ 1976-1986:

Sau khi miền Nam được giải phóng, đất nước được hoàn toàn thống nhất, Pháp-Tạng Phật-Giáo Việt-Nam giai đoạn này hoạt động cầm chừng, tần xuất, quy mô hoạt động tôn giáo giữ nguyên như hiện trạng sẵn có.

       Giai đoạn 1986-1993:

Đây là thời điểm tổ chức Pháp-Tạng Phật-Giáo Việt-Nam ngừng hẳn mọi hoạt động tôn giáo, tuy nhiên “tín chúng” không tập trung sinh hoạt tôn giáo đông người như trước kia mà vẫn giữ giềng mối đạo bằng việc thực hành lễ nghi tôn giáo trong phạm vi gia đình.

       Đến ngày 07/7/1993, Tăng chủ Từ Thế Thọ ( Đức Vô Thượng Tôn Phật ) nhập Niết Bàn. Tín chúng từ khắp các tỉnh đã quy tụ về thành phố Nha Trang xin phép chính quyền để lập Đại lễ cung nghinh nhập diệt.

       Giai đoạn 1993 – đến nay:

       Kể từ khi đức Vô Thượng Tôn Phật nhập niết bàn, hàng năm “tín chúng” khắp các nơi kính tưởng nhớ ngày đức Vô Thượng Tôn Phật nhập diệt, nhưng chỉ trong phạm vi nhỏ hẹp của các pháp Bảo.

       Lệnh tín ngưỡng, tôn giáo được Uỷ Ban thường vụ Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành năm 2005. Nhận thấy chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước đã thể hiện rõ quyền tự do, tín ngưỡng tôn giáo của người dân. Do đó, Tín chúng của Pháp-Tạng Phật-Giáo Việt-Nam đã cử đại diện lập hồ sơ xin các cấp chính quyền cho phép được hoạt động theo quy định của pháp luật. Sau khi luật tín ngưỡng, tôn giáo có hiệu lực, đến nay chính quyền các cấp đã chấp thuận cho Pháp-Tạng Phật-Giáo Việt-Nam được đăng ký sinh hoạt tôn giáo tại các địa điểm hợp pháp theo quy định của Pháp luật. Có thể nói đây là niềm vui rất lớn của tín chúng Pháp-Tạng Phật-Giáo Việt-Nam.

      Pháp-Tạng Phật-Giáo Việt-Nam có vai trò liên kết cộng đồng, cá nhân trong mọi mặt của đời sống, nhất là đời sống tinh thần của người dân. Trong thời gian tới, các hoạt động tôn giáo cụ thể, “tín chúng” của chúng tôi sẽ thể hiện đường hướng “đồng hành cùng dân tộc” dưới nhiều hình thức.

       Tín chúng Pháp-Tạng Phật-Giáo Việt-Nam cùng nhau xây dựng ý thức tự tôn dân tộc và tinh thần yêu nước, “sống tốt đời, đẹp đạo”, đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

error: NAM-MÔ A-DI-ĐÀ-PHẬT
Phap Tang Phat Giao Viet Nam Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam Phap-Tang Phat-Giao Viet-Nam